Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

Sơ lược Kinh tế Cần Thơ

Cần Thơ là đô thị trực thuộc Trung ương, nằm ở vị trí trọng tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Từ hơn trăm năm trước, Cần Thơ được mệnh danh là Tây Đô – thủ phủ của miền Tây Nam bộ và giờ đây Cần Thơ đã trở thành thành thị loại 1, một trong 4 tỉnh – thành thuộc vùng kinh tế trung tâm vùng ĐBSCL và là vùng kinh tế trọng tâm thứ 4 của Việt Nam. Lợi thế của TP. Cần Thơ không chỉ ở các lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản mà còn ở vị trí địa lý cho phép phát triển các lĩnh vực: hạ tầng đô thị; hạ tầng liên lạc; nông nghiệp công nghệ cao; công nghiệp chế biến nông - thủy - hải sản; du lịch, hạ tầng phục vụ du lịch và các ngành công nghiệp phụ trợ.

 Công nghiệp 
- Tuy sinh sản công nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, giá trị sinh sản (giá CĐ 1994) tăng bình quân 18,6%/năm (đích tăng 21%/năm); khu vực kinh tế quốc gia giảm bình quân 9%/năm, khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng bình quân 29,3%/năm và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân 17,6%/năm.

- Một số lĩnh vực sinh sản công nghiệp được đầu tư phát triển mạnh như: chế biến thủy hải sản, xay xát chế biến gạo, phân bón, thuốc sát trùng, thuốc thú y-thủy sản dùng trong nông nghiệp, bia, thuốc tây, vật liệu xây dựng, sinh sản và phân phối điện,...; Việc nghiên cứu, vận dụng công nghệ hiện đại vào sinh sản ngày một được chú trọng và có khuynh hướng phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh các doanh nghiệp có công nghệ, thiết bị đương đại, còn nhiều doanh nghiệp công nghiệp có qui mô nhỏ, thiết bị sinh sản giản đơn, công nghệ chậm đổi mới, năng lực cạnh tranh còn hạn chế nên hiệu quả sinh sản chưa cao.

 Xây        dựng 
Ngành   Nguoi giup viec   xây dựng phát triển nhanh cùng với quá trình tỉnh thành hóa; giá trị sinh sản tăng bình quân 18,3%, giá trị tăng thêm tăng bình quân 14,7%, chiếm tỷ trọng 5,05% trong GDP. Nhiều công trình qui mô lớn, chất lượng cao được đưa vào sử dụng như: cầu Cần Thơ, cảng hàng không Cần Thơ, cảng Cái Cui; các khu dân cư, khu tái định cư, khu đô thị mới, trụ sở làm việc các cơ quan chính trị, hành chính, công an, quân sự các cấp, các công trình hạ tầng thị thành được hình thành, góp phần đổi mới dung mạo thành thị.

 Thương        nghiệp-dịch vụ 
Ngành thương nghiệp-dịch vụ tuy có nhiều khó khăn nhưng duy trì được sự phát triển theo hướng đa dạng hóa loại hình, hướng tới những ngành dịch vụ có giá trị lớn, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của sản xuất kinh doanh và đời sống quần chúng. #; Giá trị sinh sản (GO) và giá trị tăng thêm đều vượt mục tiêu kế hoạch 5 năm 2006-2010, giá trị sinh sản tăng bình quân 17,8% (mục tiêu tăng 15,3%/năm), giá trị tăng thêm tăng bình quân 17,3% (đích tăng 14,97%/năm).

Thị trường nội địa được quan hoài mở mang, kết cấu hạ tầng thương mại được đầu tư xây dựng, góp phần tăng thêm năng lực bán sỉ, bán lẻ hàng hóa trên địa bàn và bước đầu trình diễn.# Vai trò tổng đại lý, phân phối hàng hóa cho toàn vùng ở cả tỉnh thành và nông thôn. Màng lưới kinh doanh được mở mang, trên địa bàn hiện có 102 chợ (3 chợ loại I, 11 chợ loại II, 88 chợ loại III), tăng 14 chợ so năm 2005; trên 10 siêu thị bán sỉ, bán buôn đang hoạt động hiệu quả; ngoài ra, còn mở ra các kênh phân phối đa dạng, đương đại như: cửa hàng thuận tiện, siêu thị mini, chợ đêm,… Nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ mới được hình thành như: dịch vụ kinh dinh bất động sản, dịch vụ kho vận (logistics), thông tin, truyền thông,… phát triển khá tốt.

Khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường liên tiếp tăng với tốc độ cao, tổng mức hàng hóa bán ra tăng bình quân 26,5%/năm, vượt 4,1% so với kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 (KH 22,4%/năm) và tăng cao so tuổi trước (tuổi 2001 - 2005 tăng 13,2%/năm), tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng bình quân 25,3%/năm, thấp hơn 0,7%/năm so với kế hoạch 5 năm        2006-2010 (KH tăng 26%/năm) và tăng cao so tuổi trước (thời đoạn 2001-2005 tăng 16%/năm).

Công tác thúc đẩy thương mại được tăng cường, các doanh nghiệp của thị thành có quan hệ xuất nhập cảng với hơn 97 nhà nước và vùng cương vực. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thu ngoại tệ ước thực hiện 5 năm đạt 3.701 triệu USD, vượt 2,5% so với KH 5 năm 2006-2010, tăng bình quân 19,8%; trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 3.569,6 triệu USD, tăng bình quân 20,6%. Dịch vụ thu ngoại tệ ước thực hành 5 năm đạt 131,5 triệu USD, đạt 48,1% KH, tăng bình quân 4,2%/năm.

Kim ngạch nhập cảng ước thực hành 5 năm đạt 2.436,8 triệu USD, đạt 94,5% KH 5 năm 2006-2010, tăng bình quân 13,8%. Hàng hóa du nhập cốt là nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 97,7% và máy móc, công cụ, phụ tùng chiếm 1,7%; hàng tiêu dùng chiếm 0,6% tổng kim ngạch du nhập.


Dịch vụ tải phát triển ổn định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - tầng lớp của thành phố bằng sự đa dạng về các phương tiện vận tải cả đường bộ, đường thủy và hàng không. Khối lượng hàng hóa tải tăng bình quân 6,5% (tuổi 2001-2005 tăng 3,1%), luân chuyển tăng bình quân 5,8% (thời đoạn 2001-2005 tăng 9%); chuyên chở hành khách tăng bình quân 7,2% (thời đoạn 2001-2005 tăng 6,4%), luân chuyển tăng bình quân 9,6% (giai đoạn 2001-2005 tăng 4,2%).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét